Thưa PGS.TS Phạm Hồng Quang, ông có nhận định như thế nào về quan điểm xây dựng, mục tiêu Chương trình giáo dục phổ thông (CTGDPT) trong Dự thảo CTGDPT tổng thể Bộ GD&ĐT vừa đưa ra xin ý kiến rộng rãi trong dư luận?
Có thể khẳng định rằng: Quan điểm xây dựng CTGDPT đã thấm nhuần định hướng đổi mới căn bản và toàn diện GD&ĐT của Nghị quyết 29; đã tạo ra sự thay đổi căn bản, toàn diện, tiếp nối những quan điểm quan trọng từ Nghị quyết T.Ư 2 Khóa VIII.
Nghị quyết số 29 đã xác định rõ mục tiêu thay đổi quan trọng trong xây dựng CTGDPT hướng đến mục tiêu xây dựng nhân cách, hướng đến mục tiêu hình thành tư cách một công dân mới, con người mới, hướng đến phát triển năng lực... Đây là quan điểm đúng đắn và khoa học.
Mục tiêu xây dựng CTGDPT đã thừa hưởng những thành quả của khoa học giáo dục hiện đại trong và ngoài nước, đặc biệt là kinh nghiệm của các nước phát triển có những mô hình giáo dục tương đồng với Việt Nam, đồng thời chứa đựng những hệ thống khoa học tri thức giáo dục hiện đại phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý người học. Đây là điểm nhấn, là sự thay đổi quan trọng trong quan điểm xây dựng, mục tiêu CTGDPT.
CTGDPT mới khi triển khai sẽ tạo ra cục diện mới, định dạng mô hình nhân cách rõ nét hơn. Các giai đoạn giáo dục trước đây định dạng mô hình giáo dục nhân cách chưa được rõ mặc dù cái đích rất rõ là chuẩn bị cho phần lớn học sinh phổ thông tham gia đời sống xã hội, chuẩn bị cho số ít học sinh sau phổ thông giáo dục hướng nghiệp.
Chương trình lần này đã phản ánh đậm nét được điều này. Nhìn vào mục tiêu CTGDPT mới có thể thấy nếu được học theo chương trình mới với sự nỗ lực cá nhân thì mô hình nhân cách sẽ gắn với thực tiễn phát triển của đất nước. Đây là điều quan trọng nhất trong CTGDPT mới.
Nhận xét của ông như thế nào về tính khả thi của CTGDPT tổng thể với điều kiện thực tế giáo dục Việt Nam hiện nay?
Tôi cho rằng CTGDPT tổng thể hoàn toàn có tính khả thi dựa trên những căn cứ sau đây: Trước hết, tính mục tiêu hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân, đúng với định hướng của Đảng trong Nghị quyết 29, chứa đựng toàn bộ tâm nguyện, ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Nhưng điều quan trọng là CTGDPT tổng thể đã phản ánh khá rõ trình độ tiên tiến của giáo dục trong khu vực và trên thế giới.
Tính khả thi của CTGDPT tổng thể là đã dựa trên cơ sở khoa học, kế thừa và phát triển những kết quả tốt của chương trình cũ. Chương trình hiện hành có rất nhiều hoạt động, quan điểm nội dung tốt đã và đang đạt được những thành quả, gặt hái được nhiều thành tựu; nhờ đó chúng ta mới có được những nguồn lực để xây dựng đất nước như ngày hôm nay.
CTGDPT tổng thể nằm trong CTGDPT mới kế thừa được những quan điểm, nội dung, hoạt động ấy của chương trình cũ thì chắc chắn mang tính khả thi cao và gần như sẽ đáp ứng được những yêu cầu đặt ra của đổi mới giáo dục.
Điểm nữa sẽ làm cho CTGDPT tổng thể có tính khả thi cao là những người thực hiện, nguồn lực thực hiện là giáo viên và sau đó là nguồn lực xã hội, sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng.
Mặc dù ngành Giáo dục đang đào tạo giáo viên để dạy một môn nhưng khi thực hiện nhiệm vụ giảng dạy tích hợp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội là hoàn toàn có thể.
Ví dụ trên thực tế giảng dạy, giáo viên Vật lý phải sử dụng toàn bộ hệ thống kiến thức khoa học tự nhiên về hóa, sinh công nghệ để giải quyết các vấn đề của khoa học vật lý, các vấn đề của cuộc sống dưới góc độ môn Vật lý.
Một giáo viên dạy môn khoa học xã hội đòi hỏi hiểu biết rất nhiều văn hóa, về xã hội, tâm lý, con người. Những nội dung đề thi trong các kỳ thi gần đây cũng đã tiếp cận được vấn đề này. Đây chính là tính khả thi của CTGDPT tổng thể.
CTGDPT tổng thể đã có điểm nhấn là Chương trình tích hợp của lĩnh vực tự nhiên, lĩnh vực xã hội ở bậc trung học. Chúng tôi cho rằng khi giáo viên nhận diện được tính chỉnh thể của hiện tượng tự nhiên, xã hội tiếp và cận nó, giải quyết các vấn đề mang tính hệ thống, mang tính chất bản chất là giáo viên hoàn toàn có thể làm được trên cơ sở được bồi dưỡng, tập huấn chắc chắn sẽ thành công.
Một yếu tố nữa trong thực tế chứng minh CTGDPT tổng thể mang tính khả thi là đặc trưng xã hội hóa nguồn lực giáo dục khá mạnh mẽ khi triển khai chương trình. Yếu tố này đặc biệt quan trọng, cần thiết đến tính khả thi của CTGDPT tổng thể vì trong xã hội hiện nay phần lớn nhân dân, học sinh ham học và ham hiểu biết, vẫn đặt nhiều kỳ vọng về giáo dục. Sự tham gia của các lực lượng xã hội vào giáo dục sẽ nhiều hơn, có hiệu quả hơn.
Các trường sư phạm có sứ mệnh như thế nào đối với việc triển khai CTGDPT mới, thưa ông?
Trong giai đoạn hiện nay, các trường sư phạm có sứ mệnh quan trọng đó là đào tạo và bồi dưỡng giáo viên. Mặc dù hiện nay CTGDPT tổng thể đang còn là dự thảo nhưng các trường sư phạm đã bám sát tư tưởng, những định hướng cơ bản của chương trình, những điểm mới trong tư tưởng đổi mới đã và đang triển khai trong thực tiễn. Các trường đã chủ động vào cuộc, thay đổi phương thức đào tạo giáo viên.
Đặc biệt là thay đổi hẳn chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực, bám sát với chức năng mới của người giáo viên. Nếu giai đoạn trước đây nhấn mạnh chức năng truyền đạt kiến thức thì tới đây trong Chương trình mới giáo viên là người hướng dẫn, tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục, tư vấn và giúp đỡ học sinh.
Sự thay đổi này mang tính bản chất do vậy việc đào tạo giáo viên cũng phải chuyển hướng theo tính chất mới. Toàn bộ chương trình đào tạo của các trường sư phạm hiện nay cũng đang tích cực đổi mới để đáp ứng được yêu cầu của CTGDPT.
Các trường sư phạm đã đặt ra hai nhiệm vụ chính: Giảng viên sư phạm phải đổi mới, gắn giáo dục đại học với giáo dục phổ thông và học tập kinh nghiệm ở nước ngoài. Tiếp đó là giảng viên trường sư phạm phải xuống các trường phổ thông để tìm hiểu, nghiên cứu, cùng nhà trường xây dựng chương trình nhà trường.
Có thể nói trong thời gian qua, 7 trường sư phạm lớn trên cả nước đã nhận thức được điều này, đã và đang quyết liệt xây dựng chương trình đào tạo giáo viên mới. Đã có hàng trăm chuyên đề bồi dưỡng giáo viên được xây dựng để thực hiện hai sứ mệnh này trong việc triển khai CTGDPT mới.
Xin cảm ơn ông!
“Trong sứ mệnh bồi dưỡng giáo viên của các trường sư phạm, làm sao đáp ứng được yêu cầu của hàng triệu giáo viên về những định hướng, những kĩ năng cụ thể để bồi dưỡng. Trọng tâm tập trung vào các lĩnh vực: Phát triển chương trình nhà trường; Cách thức tổ chức giảng dạy những môn tích hợp; Cách thức tổ chức các hoạt động trải nghiệm; Hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học... Đặc biệt là những năng lực mới của giáo viên sẽ nhấn mạnh vào các chức năng trên đây là hướng dẫn, tổ chức, tư vấn. Đây mới là lĩnh vực hệ trọng, không thể được xác định một cách chung chung. Các trường sư phạm và hệ thống giáo dục phổ thông phải chung tay mạnh mẽ”.
PGS.TS Phạm Hồng Quang