Tình cảm của Bác Hồ với miền Nam và miền Nam với Bác Hồ
Thành phố Sài Gòn đã được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh, là mảnh đất yêu quý, nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, miền Nam - mảnh đất “đi trước về sau” kiên cường đánh giặc suốt mấy chục năm trường, từng chịu biết bao đau thương, gian khổ, được Bác Hồ gửi gắm những tình cảm tin cậy và yêu thương nhất ! Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào miền Nam những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất. Tình cảm ấy được nhà thơ Tố Hữu viết:
Bác nhớ miền nam nỗi nhớ nhà
Miền nam mong Bác nỗi mong Cha
Bác nói: "Quê mình ở Nam Đàn, Nghệ An, nhưng mẹ mình mất ở xứ Huế, cha mình mất ở Cao Lãnh. Quê mình trải dài đất nước, ở những nơi như Phan Thiết, Sài Gòn trước lúc ra nước ngoài, mình đã từng sống và từng đến nơi. Nhưng nay về nước đã bao nǎm rồi, mà mình vẫn chưa về đến chốn"..."ở miền Nam, mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng. Gộp nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi".
Người trăn trở: “Một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu khổ là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”. Người luôn mong muốn được vào thăm nhân dân miền Nam. Và khi phải nằm trên giường bệnh, Người cũng mang theo mình hình ảnh miền nam.
Suốt mấy chục năm, không một phút nào là Bác không nghĩ đến đồng bào miền Nam và khi từ biệt thế giới này Bác cũng mang theo mình hơi ấm của miền Nam. Không một lời nào, không một từ nào và không có một cách nói nào để có thể kể hết được cái tình của Bác với miền Nam, mà chỉ biết rằng miền Nam yêu quý luôn ở trong trái tim của Bác.
Tấm lòng thương nhớ miền Nam của Người thể hiện trong việc chǎm sóc các cháu thiếu nhi miền Nam tập kết. Đặc biệt là tình cảm của Bác dành cho cán bộ chiến sĩ miền Nam, những người đang chiến đấu trên tuyến đầu chống Mỹ…
Người nhớ thương đồng bào miền Nam bao nhiêu, thì càng vui bấy nhiêu khi được gặp đại biểu của miền Nam. Năm 1962, Bác vui mừng được gặp Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam do giáo sư Nguyễn Vǎn Hiếu dẫn đầu ra thǎm miền Bắc.
Được gặp Bác, các đồng chí mừng vui khôn xiết. Đồng chí Nguyễn Vǎn Hiếu, thay mặt đồng bào, đồng chí miền nam, kính dâng Bác những món quà quý. Sau khi nhận quà, Bác đặt bàn tay lên ngực trái và cảm động nói: "Bác chẳng có gì tặng lại cả, chỉ có cái này: Miền Nam yêu quý luôn luôn ở trong trái tim tôi".
Đầu xuân 1955, một số cán bộ từ miền Nam ra miền Bắc tập kết gồm ông Nguyễn Thành Sen, Nguyễn Hồng Châu và Nguyễn Tấn Sinh được đồng bào trong Nam nhờ gửi tới Bác Hồ cây vú sữa, coi đó là tấm lòng của miền Nam với Bác.
Sáng mùng 2 Tết nǎm 1955, trong buổi gặp và chúc Tết Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch, các đồng chí Lê Đức Thọ, Nguyễn Vǎn Kỉnh thay mặt đồng bào miền Nam dâng tặng Bác. Bác đã trồng cây đó ngay cạnh ngôi nhà nhỏ ở góc vườn trong Phủ Chủ tịch.
Ông Nguyễn Thành Sen nhớ lại, năm 1958 khi chuyển về ở và làm việc tại nhà sàn, Người gợi ý chuyển cây vú sữa trồng cạnh nhà sàn để hàng ngày được nhìn thấy cây vú sữa của miền Nam, như luôn được gần đồng bào chiến sĩ miền Nam thân yêu… Hằng ngày ngồi làm việc, Bác vẫn nhìn thấy cây vú sữa được Người chǎm sóc vun trồng, ngày càng vươn cao và tươi tốt.
Vào năm 1963, khi Quốc hội quyết định trao tặng Hồ Chủ tịch Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta - Bác đã cảm ơn Quốc hội và đề nghị cho phép chưa nhận phần thưởng cao quý này. Người nói: “Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân sẽ sung sướng, vui mừng”
Tuy xa cách nhưng Bác Hồ luôn bên cạnh đồng bào miền Nam. Từng ngày, từng giờ và trong từng công việc lớn nhỏ, Người luôn hướng về miền Nam và dành sự quan tâm đặc biệt đối với cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết, học sinh miền Nam đang sinh sống và học tập ở miền Bắc. Đặc biệt hơn nữa là tình cảm của Bác Hồ dành cho cán bộ chiến sĩ miền Nam, những người đang chiến đấu trên tuyến đầu chống Mỹ. Đáp lại tình thương yêu, tin tưởng của Bác Hồ, đồng bào miền Nam luôn làm theo lời Bác, thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tình cảm của đồng bào miền Nam còn là sự nhớ thương, mong chờ, trông đợi được đón Bác Hồ vào miền Nam cùng vui niềm vui chiến thắng. Tình cảm máu thịt, sâu sắc của Bác Hồ với miền Nam và của đồng bào miền Nam với Bác Hồ như “chất men” xúc tác tạo thành một trong những nhân tố quyết định làm nên chiến thắng trong 2 cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, dẫn đến đại thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Người.
Là người chuyên nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Bác, bà Lê Thị Thanh Hải – nguyên Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh – Chi nhánh TPHCM xúc động kể, khi hay tin Bác mất, rất nhiều bàn thờ được lập ra ngay giữa các vùng địch tạm chiếm. Ở giữa đô thị Sài Gòn, anh em xích lô sắp hàng ngồi mặc niệm Bác hay như việc người dân Nam Bộ lập bàn thờ Bác ở xã Long Đức, thị xã Trà Vinh, ở xã Viên An (huyện Ngọc Hiển, Minh Hải) xã Lương Tân, tỉnh Hậu giang và nhiều nơi khác nữa…
Đối với cô Huỳnh Thị Kim Trúc – Giảng viên môn đường lối Cách Mạng - Tư tưởng Hồ Chí Minh – trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TPHCM luôn nhớ như in những vần thơ, câu nói của Bác đã giúp cho cô thêm niềm tin, nghị lực để giảng dạy sinh viên về cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ kính yêu.
Yêu kính và nhớ thương Bác Hồ, là con cháu của Người, mỗi chúng ta nguyện ra sức học tập và làm theo tư tưởng của Người, xem đó là kim chỉ nam trên con đường phát triển của dân tộc, của đất nước trong thời đại mới. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một việc làm lâu dài và phải xuất phát từ tư tưởng, nhận thức, tình cảm thiêng liêng đối với Bác.
Có như vậy, mới thấy hết được giá trị to lớn mà Người đã để lại cho con cháu đời sau, để từ đó noi theo gương Bác, học tập và hoàn thiện bản thân, đóng góp công sức của mình cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước này càng to đẹp hơn, đàng hoàng hơn như mong ước của Người.
Cố gắng giải phóng nhanh để Bác được vào thăm đồng bào miền Nam
"Cố gắng giải phóng nhanh để Bác được vào thăm đồng bào miền Nam", đó là niềm mong ước, nỗi khát khao và cũng là điều trăn trở của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người còn sống.
Sinh thời Bác Hồ luôn luôn dành cho cách mạng miền Nam và nhân dân miền Nam sự quan tâm và những tình cảm thân thương nhất, bởi đồng bào và chiến sĩ miền Nam là những người phải chịu nhiều đau khổ, hy sinh mất mát trong công cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Hình ảnh Bác Hồ luôn luôn ở trong tình cảm của mỗi người dân miền Nam, dù họ đã được gặp hoặc chưa một lần gặp Bác. Những người con miền Nam - Thành đồng của Tổ quốc đã được gặp Bác sẽ không bao giờ quên được những giờ phút, những khoảnh khắc hiếm hoi khi được ở bên Người, nghe Người ân cần thăm hỏi, trò chuyện và dặn dò. Sự xúc động, những tình cảm đó đã để lại trong ký ức của họ những kỷ niệm sâu sắc, mãi mãi không bao giờ quên. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nhân dân miền Nam đã kiên cường anh dũng chiến đấu để Tổ quốc sớm thống nhất, sớm được đón Bác vào thăm, thoả lòng mong ước của Người cũng như của toàn thể đồng bào miền Nam.
Bác mong được vào miền Nam để thăm đồng bào và chiến sĩ. Ước mong đó luôn thường trực trong tâm trí của Người. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, với chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ "vang dội năm châu", quân và dân ta đã đánh thắng thực dân Pháp, giải phóng hoàn toàn miền Bắc. Tháng 9-1954, trong thư gửi bộ đội, cán bộ và gia đình cán bộ miền Nam ra Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Đến ngày hoà bình đã được củng cố, thống nhất được thực hiện, độc lập, dân chủ đã hoàn thành, đồng bào sẽ vui vẻ trở về quê cũ. Lúc đó rất có thể tôi sẽ cùng đồng bào vào thăm miền Nam yêu quý của chúng ta"(1).
Bác cũng khẳng định: "Ngày nào mà chưa đuổi được đế quốc Mỹ ra khỏi miền Nam nước ta, chưa giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của Mỹ - Diệm, thì nhân dân ta vẫn chưa thể ăn ngon, ngủ yên"(2).
Nguyện vọng vào thăm quân và dân miền Nam của Người chưa lúc nào nguôi. Năm 1963, trong một lần Bác mời Thượng tướng Trần Văn Trà đến ăn cơm chia tay trước khi ông lên đường vào Nam chiến đấu, Người đã tặng ông một hộp xì gà Cuba do Chủ tịch Phiđen Caxtrô gửi tặng. Bác nói: "Bác gửi chú món quà này mang về cho anh em trong đó hút để nhớ Bác và nhớ đến Cuba anh em. Cố gắng giải phóng nhanh để Bác được vào thăm đồng bào miền Nam"(3).
Vào tháng 2 năm 1966, tại ngôi Nhà sàn ở Phủ Chủ tịch, Bác nói với các đồng chí trong Bộ Chính trị: Đã bao lần tôi yêu cầu vào Nam, sao các chú không thu xếp cho tôi đi?... Sao các chú không để tôi đi… Bây giờ tôi còn đang khoẻ, đi lại thuận tiện… Không vào Nam Bộ được thì vào Khu V hay một vùng giải phóng nào đó cũng được… Các chú định lúc nào mới cho tôi đi? Tôi đề nghị mãi mà các chú vẫn cứ từ chối!"(4).
Chính vì chưa một lần vào thăm đồng bào, cán bộ và chiến sĩ miền Nam, nên khi có các đoàn đại biểu của miền Nam ra Bắc dù là đi công tác, đi họp, học tập hay tham quan, chữa bệnh, các đồng chí đều sắp xếp để Bác gặp dù là ở chiến khu Việt Bắc hay giữa lòng Thủ đô Hà Nội.
Ngày 3-10-1948, Bác tiếp đoàn đại biểu quân chính Nam Bộ do đồng chí Phạm Văn Bách dẫn đầu ra công tác và thăm Người tại chiến khu Việt Bắc. Các đại biểu Nam Bộ đã đem theo những tặng phẩm của nhân dân miền Nam gửi kính biếu Bác và Chính phủ, trong đó có bức họa vẽ bằng máu của họa sĩ Diệp Minh Châu. Bức họa vẽ hình Bác và ba em thiếu nhi tượng trưng ba miền Bắc - Trung - Nam vây quanh Bác. Khi xem bức họa, Bác rất xúc động.
Đầu tháng 5-1961, Bác tiếp đồng chí Bông Văn Dĩa từ miền Nam ra nhận nhiệm vụ lái con tàu mở đường Hồ Chí Minh trên biển. Tiếp đó, Người tiếp đồng chí Võ Bẩm, Đoàn trưởng Đoàn vận tải quân sự 559 và căn dặn: "Đoàn phải làm tốt, làm nhiều hơn nữa, phải giữ được bí mật, bất ngờ, hoàn thành tốt nhiệm vụ tiếp sức cho cách mạng miền Nam".
Ngày 20-10-1962, lần đầu tiên Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra thăm miền Bắc, xúc động ôm hôn Giáo sư Nguyễn Văn Hiếu, Bác đã đặt tay lên ngực mình và nói: "Hình ảnh miền Nam yêu quí luôn luôn ở trong trái tim tôi".
Tại Hà Nội, nhớ tới đồng bào miền Nam đang ngày đêm chiến đấu, Bác đến thăm Phái đoàn đại diện thường trực của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Người tiếp các đoàn đại biểu miền Nam ra thăm miền Bắc, tiếp các anh hùng và chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam, các cháu thiếu nhi dũng sĩ miền Nam. Người thăm Triển lãm tranh tượng của các họa sĩ điêu khắc miền Nam tập kết ở miền Bắc, gửi thư cho các cán bộ và học sinh trường miền Nam, thăm nơi an dưỡng dành cho đồng bào miền Nam, thăm trại thiếu nhi miền Nam…
Đoàn đại biểu cuối cùng của miền Nam được gặp Bác trước lúc Người đi xa là Đoàn đại biểu Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình miền Nam do luật sư Trịnh Đình Thảo làm Chủ tịch dẫn đầu ra thăm miền Bắc. Ngày 5 tháng 8 năm 1969, ngày thứ hai trên đất Bắc, đoàn đã vô cùng xúc động và vui mừng khi được đón Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng tới thăm ngay tại nơi nghỉ của đoàn ở Hà Nội. Tình cảm và sự quan tâm sâu sắc của Bác đã động viên tinh thần rất lớn và góp phần vào những chiến công của quân và dân miền Nam.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, quân và dân miền Nam đã chiến đấu kiên cường, giành được nhiều thắng lợi to lớn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tập trung sức lực, trí tuệ chỉ đạo sự nghiệp giải phóng miền Nam, theo dõi sát sao tình hình chiến sự đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên chiến trường miền Nam. Người chú trọng đặc biệt tới việc chi viện cho cách mạng miền Nam. Người tin rằng với tinh thần đoàn kết, bền bỉ, anh dũng trong chiến đấu và quyết thắng của nhân dân miền Nam, với những kinh nghiệm chiến đấu trong gần 20 năm, được nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới đồng tình và ủng hộ, nhân dân miền Nam nhất định sẽ thắng lợi. Người gửi thư chúc mừng khi được tin đồng bào miền Nam đã đạt nhiều thành tích trong chiến đấu, động viên quân và dân miền Nam cố gắng hơn nữa: "Đầu Xuân năm nay, quân và dân miền Nam anh hùng đã tiến công địch liên tục, đều khắp, đánh rất giỏi, thắng rất to".
Bác rất vui lòng gửi đến các cô, các chú lời khen nhiệt liệt nhất, thân ái nhất. Giặc Mỹ đã thua nặng. Nhưng chúng vẫn chưa bỏ dã tâm xâm lược, chưa chịu rút quân ra khỏi nước ta. Vậy ta phải tiếp tục đánh mạnh, đánh đau, đánh cho đến khi Mỹ, ngụy thất bại hoàn toàn, cho đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng"(5).
Ngày 8 tháng 5 năm 1963, tại kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khoá II, Bác từ chối nhận Huân chương Sao vàng và đề nghị: "Chờ đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc hoà bình thống nhất, Bắc - Nam sum họp một nhà, Quốc hội sẽ cho phép đồng bào miền Nam trao cho tôi Huân chương cao quý. Như vậy thì toàn dân ta sẽ sung sướng, vui mừng"(6).
Ngày 10 tháng 3 năm 1968, trong thư gửi đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bác nói rõ ý định, nêu cách đi, thời gian và lịch trình cho chuyến đi vào miền Nam của mình. Đọc bức thư của Người chúng ta rất xúc động vì lúc này tuổi của Bác đã cao, sức khoẻ đã yếu đi nhiều: "Nhớ lại hồi Nô-en năm ngoái, Chú có khuyên B.(7) đi thăm miền Nam sau ngày ta thắng lợi hoàn toàn, B. rất tán thành.
Nhưng nay chỉ đổi chữ "sau" thành chữ trước ngày thắng lợi hoàn toàn, tức là đi thăm khi anh em trỏng (8) đang chuẩn bị mở màn thứ ba. Đi thăm đúng lúc đó mới có tác dụng khuyến khích thêm anh em…
Có lẽ Chú và đồng chí khác e rằng sức khoẻ của B. không cho phép B. đi chơi xa. Nhưng, thay đổi không khí, hô hấp gió biển và sinh hoạt với quần chúng trong hoàn cảnh chiến đấu sẽ giúp sức khoẻ tiến bộ mau hơn…"(9).
Bước sang năm 1969, Bác đã 79 tuổi, cái tuổi "xưa nay hiếm" nhưng khi gặp các đồng chí Phạm Hùng và Hoàng Văn Thái từ miền Nam ra Bắc họp (tháng 3-1969), Bác vẫn nhắc tới việc thu xếp để Người vào Nam. Trước khi hai đồng chí trở lại chiến trường, Bác hỏi: Các chú có thể chuẩn bị cho Bác sớm vào thăm đồng bào miền Nam được không?(10). Đồng chí Hoàng Văn Thái và đồng chí Phạm Hùng đã xúc động thưa: "Chúng cháu nhất định hoàn thành nhiệm vụ để sớm rước Bác vào Nam". Bác nói: Hai chú cho Bác gửi lời thăm hỏi đồng bào miền Nam, thăm cán bộ dân chính Đảng, thăm cán bộ và chiến sĩ trong quân đội. Các chú phải nhớ chuyển lời này cho Bác. Đó là những tình cảm mà Bác dành cho nhân dân miền Nam. Tiếc rằng nguyện vọng đó chưa một lần thực hiện được thì Bác đã đi xa.
Ngày 30 tháng 4 năm 2016, một ngày lễ lớn của dân tộc - ngày Đại thắng mùa Xuân, đã tròn 41 năm đất nước ta vui niềm vui thống nhất, non sông thu về một mối. Mỗi khi tới ngày này chúng ta càng nhớ tới Bác Hồ muôn vàn kính yêu, nhớ tới một con người mà trong nhiều năm không lúc nào nguôi ngoai ước nguyện là được vào thăm đồng bào và chiến sĩ miền Nam yêu quý./.
Bác Hồ với đồng bào miền Nam ruột thịt
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt cho đồng bào miền Nam ruột thịt bởi “miền Nam đi trước về sau”. Khi một nửa đất nước còn nằm dưới ách thống trị của Mỹ - ngụy thì trái tim Bác luôn hướng về miền Nam, thương nhớ đồng bào ngày đêm rên xiết dưới gót giày quân xâm lược, cùng niềm mong mỏi ngày thống nhất đất nước. Tình cảm của Người dành cho đồng bào miền Nam phần nào được thể hiện qua câu nói giản dị mà rất nổi tiếng của Người: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi… “.
Ngày 5/6/1911, Bác Hồ tạm biệt mảnh đất Nam Bộ thân yêu để từ bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước trên chiếc tàu Đô đốc Latouche Treville. Và 34 năm sau, ngày 26/9/1945, trong cương vị Chủ tịch Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Bác có lá thư đầu tiên gửi đồng bào Nam Bộ (sau ngày Nam Bộ kháng chiến 23/9) nhằm động viên, kêu gọi tinh thần đấu tranh của nhân dân miền Nam khi thực dân Pháp núp dưới bóng quân Anh quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa: “Hỡi đồng bào Nam Bộ! Nước ta vừa tranh quyền độc lập, thì đã gặp nạn ngoại xâm, khi còn chiến tranh với Nhật, bọn thực dân Pháp hoặc đầu hàng hoặc chạy trốn. Nay vừa hết chiến tranh, thì bọn thực dân Pháp hoặc bí mật, hoặc công khai mò đến. Trong bốn năm, họ đã bán nước ta hai lần… Tôi tin và đồng bào cả nước chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ. Tôi chắc và đồng bào cũng chắc rằng Chính phủ và đồng bào toàn quốc sẽ hết sức giúp đỡ những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh đấu tranh để giữ vững nền độc lập của nước nhà”. Ngay sau đó, Hồ Chủ tịch đã gửi thư cho Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ kèm theo bản Tuyên ngôn độc lập, yêu cầu đại diện phe đồng minh có sự can thiệp tức thời ngăn chặn ngay việc thực dân Pháp, núp bóng quân Anh gây chiến ở Nam Bộ.
Ngày 29/10/1945, Bác ra lời kêu gọi đồng bào Nam Bộ và lời kêu gọi thanh niên Nam Bộ, vạch rõ phương hướng hoạt động của toàn dân thực hiện: “Vì công lý, cuộc kháng chiến tự vệ của dân tộc ta phải hoàn toàn thắng. Quân Pháp đi đến đâu sẽ gặp cảnh đồng không nhà vắng, không người, không lương thực… Đồng bào miền Nam trong một tháng nay, đã tỏ rõ tinh thần vững chắc, hùng dũng, đáng làm gương cho lịch sử thế giới… Các bạn thanh niên Nam Bộ đã là bức Vạn lý trường thành vững chắc”. Ngày 1/6/1946, trước khi lên đường sang Pa-ri để đàm phán với chính phủ Pháp tại Hội nghị Phông-ten-nơ-blô, Hồ Chủ tịch lại có thư gửi đồng bào Nam Bộ: “Cùng đồng bào Nam Bộ yêu quý! Được tin tôi cùng đoàn đại biểu qua Pháp để mở cuộc đàm phán chính thức, đồng bào cả nước, nhất là đồng bào Nam Bộ đều lấy làm bâng khuâng. Bâng khuâng vì chưa biết tương lai Nam Bộ thế nào?
Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng Hồ Chí Minh không phải là người bán nước. Đồng bào Nam Bộ cùng hy sinh tranh đấu mấy tháng trường để giữ gìn non sông cho toàn nước Việt Nam. Cho nên đồng bào cả nước đều phải nhớ ơn đồng bào Nam Bộ. Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi…”.
Tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp trở về, ngày 23/10/1946, Bác lại khẳng định: “Đối với gan vàng, dạ sắt của đồng bào Nam Bộ, toàn thể quốc dân không bao giờ quên, Tổ quốc không bao giờ quên, Chính phủ không bao giờ quên. Tôi kính cẩn cúi đầu chào trước linh hồn các liệt sĩ và xin lỗi những đồng bào đang khổ sở, hy sinh…”.Chủ trương hòa hoãn thông qua việc đàm phán tại Phông-ten-nơ-blô và ký Tạm ước 14/9/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hết sức sáng suốt và đúng đắn, tạo điều kiện để quân dân cả nước, đặc biệt là đồng bào, chiến sĩ Nam Bộ có thời gian để xây dựng lực lượng chiến đấu lâu dài. Phân tích và đánh giá chủ trương đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Các đồng chí và đồng bào Nam Bộ cho rằng chủ trương này đúng. Mà đúng thật. Vì đồng bào và đồng chí ở Nam Bộ đã khéo lợi dụng dịp đó để xây dựng và phát triển lực lượng của mình…”.
Trong hàng ngàn bức thư, bức điện, bài nói, bài viết, trả lời phỏng vấn… Bác Hồ luôn dùng những lời lẽ cao quý nhất, trang trọng và tha thiết nhất để ca ngợi tinh thần bất khuất, kiên cường, lòng yêu nước sâu sắc của đồng bào, chiến sĩ miền Nam. Người tặng danh hiệu “Thành đồng Tổ quốc” cho nhân dân miền Nam, tặng phụ nữ miền Nam tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”… Tư tưởng được Bác quán xuyến suốt 24 năm làm Chủ tịch nước là sự toàn vẹn lãnh thổ, quét sạch giặc ngoại xâm, thống nhất đất nước.
Người kêu gọi: “Vì miền Nam ruột thịt, mỗi người làm việc bằng hai”, dồn sức người, sức của để chi viện cho quân dân miền Nam chiến đấu. Mùa Xuân năm 1969, dù sức khỏe đã yếu, Bác vẫn dành thời gian tiếp đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Bác nói: “Trong thư chúc Tết năm nay, tôi có nói là: “Tiến lên! Chiến sĩ, đồng bào/Bắc Nam sum họp Xuân nào vui hơn!”. Trong lúc viết như thế, tôi cũng không chắc là câu thơ đó được thực hiện sớm trong năm nay… Để hoan nghênh phái đoàn miền Nam ruột thịt thì có nói mấy trăm câu, mấy nghìn câu, mấy vạn câu cũng không thể hết được. Tôi chỉ xin nói một câu thôi: “Bao giờ Nam - Bắc một nhà / Việt Nam đại thắng chúng ta vui mừng”. Và Bác xúc động nhắc lại điều Bác đã từng nói nhiều lần: “Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi…”.
Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Người đã để lại bản Di chúc với những dòng thiết tha, thương nhớ hướng về miền Nam và khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta sẽ thắng lợi hoàn toàn: “Dù khó khăn, gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi… Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà… Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn. Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam, Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ chiến sĩ”…
Đáp lại tình cảm của Bác, nhân dân miền Nam đã chiến đấu anh dũng, kiên cường để góp phần làm lên đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thỏa lòng mong ước của Người…